Địa chỉ: 81 Huyền Trân Công chúa, Quận Ngũ Hành Sơn, T.P Đà Nẵng
Giá:
– Điểm tham quan Ngọn Thủy Sơn:
+ Người lớn: 40.000đ/người/lần
+ Học sinh, sinh viên: 10.000đ/người/lần
+ Trẻ em dưới 6 tuổi: Miễn thu
- Giá vé dịch vụ thang máy: 15.000đ VNĐ/người/lượt (khứ hồi 30.000đ/người)
- Giá vé Hướng dẫn – Thuyết minh: 50.000 VNĐ/đoàn
*Khi tham quan ngọn Thủy Sơn du khách có thể mua vé lên cổng 01 hoặc cổng 02. Ngoài ra, tại đây còn có hệ thống thang máy đưa du khách lên tham quan. Nếu đi thang máy thì phải mua vé dịch vụ vận chuyển thang máy.
– Điểm tham quan Động Âm Phủ:
+ Người lớn: 20.000đ/người/lần
+ Học sinh, sinh viên: 7.000đ/người/lần
+ Trẻ em dưới 6 tuổi: Miễn thu
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGŨ HÀNH SƠN
Vị trí địa lý:
Khu du lịch thắng cảnh Ngũ Hành Sơn (gọi tắt là danh thắng Ngũ Hành Sơn) nằm ở phía đông nam thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố khoảng 8 km. Phía Đông giáp biển Đông; Phía Tây giáp sông Cổ Cò; Phía Nam giáp khu dân cư phường Hòa Hải; Phía Bắc giáp khu dân cư phường Hòa Hải” có thể nói gọn hơn: “Phía Đông giáp Biển Đông; Phía Tây giáp sông Cổ Cò; Phía Nam và phía Bắc giáp khu dân cư phường Hòa Hải”.
Khu danh thắng Ngũ Hành Sơn có vị trí địa lý hết sức thuận lợi: là điểm đến của du khách trên con đường di sản Miền Trung: Cố Đô Huế – Ngũ Hành Sơn – Phố cổ Hội An và Khu di tích đền tháp Mỹ Sơn, bên cạnh đó khu danh thắng còn có biển, có sông và núi rất thuận lợi cho việc khai thác và phát triển du lịch.
Không gian cấu trúc chùa chiền và hang động:
Ngũ Hành Sơn là quần thể gồm có 6 ngọn núi: Thủy Sơn, Kim Sơn, Hỏa Sơn (gồm có Dương Hỏa Sơn và Âm Hỏa Sơn), Thổ Sơn, Mộc Sơn.
Hòn Thủy Sơn nằm ở phiá đông bắc là núi đẹp nhất, du khách thường đến ngoạn cảnh gọi là Chùa Non Nước, phong cảnh hữu tình có thể nói núi Thủy sơn nằm dài từ đông sang tây rộng 15 ha, có nhiều Chùa được xây cất lâu đời, có động Thạch nhũ, có hai chùa đẹp chùa Tam Thai và chùa Linh Ứng, đường lên núi làm bằng từng cấp lót đá, trên đỉnh 3 ngọn núi mang tên là “Tam Thai” bởi vì nó giống như “Sao Tam Thai” tức là 3 ngôi sao làm thành cái đuôi của chùm sao Đại Hùng Tinh. Hòn Thủy Sơn gồm có 09 hang động, 5 chùa- tháp, Vọng giang đài và Vọng hải đài.
Động Âm Phủ nằm ở phía nam Thủy sơn du khách vào thăm hang động nầy thấy thiếu ánh sáng mặt trời. Càng đi vào sâu càng tối tăm hơn, nên có tên là Âm phủ có người nói rằng nếu đem những trái bưởi có đánh dấu bỏ vào đó mấy ngày sau sẽ thấy trôi ra biển có thể động nầy ăn thông ra biển.
Bên phải chùa theo các phiến đá lót phụ bước lên Vọng Hải Đài nhìn cảnh quan từ trên cao xuống bãi cát vàng và biển khơi mênh mông, xa thẳm, nhìn về hướng đông nam là đảo Cù Lao Chàm, những đàn hải yến bay lượn dưới bầu trời trong xanh). Một nhà thơ đất Quảng là Phạm Hầu từng viết bài thơ Vọng Hải đài rất nổi tiếng trong Phong trào Thơ Mới ở Việt Nam giai đoạn 1932-1945. Vua Minh Mạng được xem là “kiến trúc sư trưởng” của Khu danh thắng Ngũ Hành Sơn: chính Vua Minh Mạng đã lập nên Vọng Hải đài.
- Động Linh Nham
- Động Hoa Nghiêm
- Động Vân Thông (động thông với mây)
- Động Tàng Chơn (nằm sau chùa Linh Ứng, động chính giống như thung lũng nhỏ chiều dài 10 m ngang 7 m thoáng mát, nhờ thông lên trời qua cửa Thiên Long Cốc)
- Động Thiên Long (hang của rồng và trời)
- Động Thiên Phước Địa
- Động Ngũ Cốc
* Hang gió:
- Hang gió đông (Vân căn nguyệt quật)
- Hang gió tây (Vân căn nguyệt quật)
Chùa Tam Thai Ngôi chùa được xây dựng từ năm 1630. Tháng 4 năm 1826 nhà vua Minh Mạng ra lệnh đúc cho chùa 9 pho tượng và 3 qủa chuông lớn, chùa Tam Thai còn lưu giữ “quả tim lửa” và chiếc chuông khắc tên vua Minh Mạng. Chùa nayy được trùng tu lại năm 1946 và năm 1975. Sân chùa rộng giữa sân là tượng Phật Di Lặc đồ sộ, chung quanh nhiều cây kiểng loại bonsai và hoa sứ nhiều màu trắng vàng thoảng mùi hương, cuối sân là nhà phương trượng của tu sĩ và thầy trù trì, nơi đây chỉ có đá và chùa phương trượng, nhưng không có Sư phương trượng.
Chùa Tam Thai trải qua hơn 200 năm lịch sử với chất liệu nung, mật mía và vôi đường nhưng giờ đây nó được khang trang hơn bởi gạch ngói vững chắc do con người trùng tu lại năm 1907 vì trước đó bị một trận bão lớn làm hư hại. Chùa dựa vào ba thế núi là Hạ thai, Trung thai và Thượng thai, ba ngọn núi này sắp xếp giống ba ngôi sao trong chùm sao Đại Hùng Tinh, người dân thường gọi là sao cày.
Hiện giờ chùa còn giữ lại tấm kim bài hình quả tim lửa và một bức hoành phi có ghi lại bút tích của vua ban tặng. Trong khuôn viên chùa còn có khu hành cung, nơi một thời vua và quan triều Nguyễn đã từng ngụ du viếng cảnh, khi đến đây để lập đàn cầu quốc thái dân an. Đây là ngôi chùa được phong Quốc tự và là di tích Phật giáo lâu đời của Ngũ Hành Sơn.
Chùa Linh Ứng hướng ra biển, xây thời vua Minh mạng 1825 gọi Ứng Chân Tự đến đời vua Thành Thái 1891 đổi thành Linh Ứng Tự, có tượng lớn Đức Quan thế Âm bồ tát. Chùa Linh Ứng thờ Tam Thế Phật, chính giữa Phật Thích Ca, bên phải Di Lặc, bên trái Di Đà. Năm 1970 các Tăng ni, Phật tử Quảng Nam-Đà Nẵng xây lại chùa mới.
Chùa Linh Ứng thờ bài vị của trưởng lão Bửu Đài. Chùa Linh Ứng tọa lạc trên ngọn Thủy sơn, đây cũng là ngôi chùa cổ xoay mặt về hướng Đông nhìn thấy biển và lưng chùa tựa núi như tạo nên một sự vững chắc cho ngôi chùa. Chùa được xây dựng vào những năm nửa đầu thế kỷ XVII dưới thời vua cảnh Hưng Triều Lê, một vị tiền hiền hiệu Quan Chánh đến ẩn tu và lập ra một am nhỏ gọi là “Dưỡng Chơn Am” sau này thành một gian nhà tranh gọi là “Dưỡng Chơn Đường”.
Khi vua Gia Long đến viếng Ngũ Hành Sơn và cho xây dựng lại chùa phong quốc tự là “Ngự chế ứng chơn tự” do Bảo Đài đại sư trụ trì. Đến 1825, vua Minh Mạng cho xây dựng lại chùa bằng gạch ngói khang trang hơn và đổi tên thành “Ứng Chơn Tự”, rồi đến đời Thành Thái (1891) đổi tên thành “Linh Ứng Tự” và tên này được giữ nguyên cho đến nay.
Hòn Kim Sơn là hòn núi khiêm tốn nhất trong 6 ngọn núi kéo dài từ đông sang tây, sông Trường nối dài ra sông Đà Nẵng, có đò Bến ngự ngày xưa Vua chúa thường cập bến nơi đây để ngọan cảnh, qua thời gian biển dâu biến thành ruộng đồng, sông Trường có tên Lộ Cảnh Giang là sông Cổ Cò, đã bị vùi lấp biến thành ruộng hoặc hồ nước còn dấu tích của những đoạn sông chưa bị lấp kín.
Ở đây gồm có 02 chùa và 02 động:
- Chùa Quán ThếÂm và động Quan Âm
- Chùa Thái Sơn và động Tam Thanh
Chùa Quán Thế Âm hiện nay đang được mở rộng và có ngôi chùa bằng đá rất lớn, trong đó có Bảo tàng Văn hóa Phật giáo – Bảo tàng Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam nằm trong khuôn viên 700m2 của Chùa Quán Thế Âm; Hiện nay Bảo tàng đang trưng bày khoảng hơn 200 hiện vật kết tinh những giá trị văn hoá độc đáo gồm: Tượng Bồ tát Quan âm tống tử, Bổ tát Quan âm cưỡi long ngư, nhiều bộ linh tượng cổ như Thích Ca, Dược Sư, Di Lặc, Phật Bồ Tát Mật Tông, Quán Âm, Chămpa, Di Đà, các chuông đồng, Bộ trượng tám thế,…
Bên cạnh đó, hiện Chùa cũng đang lưu giữ nhiều hiện vật là những tượng Phật, mộc bản kinh Phật, Lư đồng thời xa xưa, đồ thờ cúng, … có niên đại từ thế kỷ VII, đến cuối thế kỷ XIX, XX…
Hòn Mộc Sơn nằm phiá đông nam nằm song song với núi Thủy sơn . Tuy gọi là Mộc Sơn nhưng núi này rất ít cây cối, sườn núi dốc dựng đứng. Núi không có chùa chỉ có một khối đá cẩm thạch màu trắng người ta gọi khối đá này là “Cô Mụ” hay “Quan Âm”, dưới núi có một động nhỏ là Động Bà Trung.
SỰ HÌNH THÀNH QUẦN THỂ NGŨ HÀNH SƠN
1.Sự hình thành và cấu tạo địa chất theo khoa học:
Theo các nhà địa chất học, quần thể Ngũ Hành Sơn vốn là những hòn đảo nhỏ nằm giữa biển Đông và dần được nối vào đất liền sau khi đồng bằng Quảng Nam được hình thành do sự vận động nâng lên của dãy Trường Sơn và sự bồi đắp của con sông Thu Bồn cùng các nhánh sông của nó. Hiện nay, bờ biển đã rút ra xa cách quần thể núi khoảng 800 m, tạo nên khu danh thắng với quần thể núi non độc đáo và hấp dẫn.
Ngũ Hành Sơn mang tính chất của núi đá vôi Việt Nam, do ở vùng nhiệt đới lắm nắng mưa nhiều nên đá vôi lâu ngày bị hòa tan tạo ra những cảnh đẹp hết sức kỳ bí và huyền ảo, nhất là trong các hang động.
Hang động trong quần thể Ngũ Hành Sơn là những hang động mở, có nhiều lỗ hỏng thông với bên ngoài nên động luôn mát mẻ và thoáng khí, không giống như những động kín ở các nơi khác như Phong Nha, Vịnh Hạ Long, Lạng Sơn…
2.Sự hình thành theo truyền thuyết:
Ngũ Hành Sơn – Non Nước là dịa danh không những đi vào thơ ca, nhạc, họa từ bao đời nay mà còn lưu tụng ở đó bao nhiêu truyền thuyết mang đậm bản sắc văn hóa của một dân tộc luôn vượt lên những hoàn cảnh khắc nghiệt để tự tồn tại và phát triển. Thông qua những truyền thuyết về sự tích hình thành Ngũ Hành Sơn – Non Nước chúng ta cũng thấy được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của những người đi lập nghiệp lúc bấy giờ. Đó là tình cảm đối với quê hương đất nước, ý thức hướng về cội nguồn của mọi người Việt Nam.
Sự hình thành Ngũ Hành Sơn đã gắn liền với truyền thuyết về thần Kim Quy và trứng Rồng của Long Quân. Chuyện kể rằng: ngày xửa ngày xưa có một cụ già từ miền biển phía Bắc xa xôi bơi thuyền đến cập vào bãi biển phía Đông (Đà Nẵng ngày nay), cụ lên bờ và dựng một túp lều tranh sống hiu quạnh một mình với công việc chài lưới.
Một buổi sáng, như thường lệ, cụ sửa soạn thuyền để ra khơi đánh cá, thình lình trời bỗng nổi sấm, gió thổi vùn vụt, mặt biển sôi động, từng đợt sóng cao xô vào bờ cuồn cuộn. Trong tiếng gầm rít của gió, tiếng gào thét của sóng cụ già thấy hiện ra một con rồng khổng lồ làm mặt đất rung chuyển, cát bụi bay mù mịt, cụ già tưởng như căn lều của mình tan thành ra từng mảnh khi con rồng tiến gần về phía đó. Cụ bỗng nghe một tiếng sấm vang lên và từ dưới bụng con rồng lăn ra một quả trúng lớn, sau đó con rồng từ từ quay ra biển và biến mất sau những đợt sóng khổng lồ.
Một lát sau, trời yên biển lặng, cụ già chưa kịp hoàn hồn thì bỗng thấy một con rùa vàng lớn cũng từ ngoài khơi đi vào và đến bên túp lều, Rùa Vàng đào một lỗ trên cát rồi vùi quả trúng xuống. Sau đó Rùa Vàng quay lại bảo cụ già:“Ta là thần Kim Quy, ta muốn ngươi phải gắn sức bảo vệ giọt máu này của Long Quân”, chưa hết bàng hoàng, cụ già lúng túng trả lời:“Nhưng tôi tuổi già, sức yếu làm sao đủ sức đảm đương công việc hệ trọng này”. Thần Kim Quy liền trao cho cụ già một chiếc móng và nói:“Ngươi đừng lo, hãy cầm lấy chiếc móng này và hễ có chuyện chẵng lành thì cứ đặt móng bên tai, ta sẽ chỉ cách cho”, cụ già nhận chiếc móng và nói:“Được, tôi xin cố hết sức”. Xong việc, thần Kim Quy liền quay ra biển và biến mất sau làn nước xanh.
Từ đó, cụ già giữ gìn và chăm nom quả trúng rất cẩn thận. Một hôm đang làm việc trong vườn, cụ già kinh hải khi thấy một chiếc xe trâu từ đằng xa cứ nhắm thẳng vào vị trí chôn quả trúng mà tiến đến, trên xe lố nhố những khuôn mặt dữ dằn với binh khí hùng hổ trên tay. Với ý nghĩ chỉ cần chiếc xe trâu lăn qua cũng đủ làm cho quả trúng vỡ tan tành, cụ già vội lấy chiếc móng rùa ra đặc sát bên tai mình và cụ nghe một giọng nói dịu dàng vang lên: “Hãy nằm xuống, nằm xuống đi”, cụ già liền làm theo, mới vừa nằm xuống cụ liền hóa thành một con hổ to lớn, bọn kia hoảng hồn quay xe tháo lui chạy mất.
Sau đó, cụ già dỡ cả túp lều của mình đến dựng ngay bên trên chỗ chôn quả trứng Rồng. Cụ không ngờ trứng mỗi ngày một lớn và trồi dần lên khỏi mặt đất. Trứng cứ lớn mãi, lớn mãi choáng hết căn nhà tranh bé nhỏ của cụ. Vỏ trúng lấp lánh như một hòn ngọc khổng lồ. Một đêm cụ già vừa nằm chợp mắt thì nghe có tiếng lửa cháy lách tách, thì ra bọn người hôm nọ đang quay lại phóng lửa đốt túp lều của cụ, thấy thế cụ liền khấn xin thần Kim Quy cứu giúp. Vừa khấn xong, cụ liền thấy mình ở trong một hang đá rộng rãi mát mẻ, trong góc hang lại có giường chiếu sẳn sàng. Cụ không hề hay biết rằng có một phép màu đã xảy ra, chính cụ ở trong hang đá của một trong sáu ngọn núi Cẩm Thạch vừa được biến thành từ sáu mảnh vỡ của chiếc vỏ trứng thần, từ trong chiếc trứng ấy đã bước ra một cô gái xinh xắn chính là giọt máu – con gái của Long Quân.
Cụ già bàng hoàng hơn khi bước ra cửa hang và nhìn thấy quanh mình có năm hòn núi đá có đủ loại cây cỏ, chim muông… Từ đó cụ già với cô gái nhỏ sống bên nhau như hai cha con, chim chóc và thú rừng là những người bạn của họ. Hằng ngày, từng đàn chim thay nhau đi lấy sữa từ trong các mạch đá và hái trái cây quanh núi về nuôi cô bé, chúng còn tha bông vải từ các nơi về dệt nên những bộ quần áo xinh đẹp cho cô bé và ông cụ. Cô bé và cụ già được người dân trong vùng yêu mến bởi hai cha con đã dạy cho họ biết trồng cây, dệt vải để sinh sống và còn vào rừng hái lá chữa bệnh cho mọi người.
Thời gian thắm thoát thoi đưa, cô bé đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt vời. Một hôm, có chàng Hoàng Tử con vua đi săn với đoàn tùy tùng đi lạc đến cửa hang dưới chân núi đã nhìn thấy cô gái, quá si mê với vẻ đẹp kiều diễm, chàng đã trở về xin vua cha cho cưới nàng làm vợ. Ngày đoàn tùy tùng mang kiệu rước cô gái về cung cũng là ngày thần Kim Quy lên bờ đón cụ già xuống biển.
MỘT VÀI ĐIỂN CỐ LỊCH SỬ VỀ NGŨ HÀNH SƠN
Ngũ Hành Sơn trải qua bao đời, và mỗi đời ghi lại nhiều dấu ân lịch sử đậm chất linh thiêng.
– Nơi đây ghi các dấu ấn văn hoá lịch sử còn in đậm trên mỗi công trình chùa, tháp đầu thế kỷ XIX, trên mỗi tác phẩm điêu khắc Chàm của thế kỷ XIV, XV.
– Theo truyền thuyết vào đời nhà Hậu Lê, vua Lê Thánh Tông trị vì từ (1460-1497) đã khám phá ra Ngũ Hành Sơn. Trên các cụm núi đó thờ thần linh, là lãnh địa Amaravati tức Cổ Lâm Ấp đất đai của Chiêm Thành, trở thành lãnh thổ của Đại Việt. Theo tài liệu đại sư Huệ Đạo Minh đầu tiên tu ở núi Thủy Sơn trong hang động dựng tấm bia thứ nhất “Ngũ Uẩn Sơn”. Ngày nay gọi là động Vân Thông năm Tân Tỵ (1640). Tấm bia thứ hai ở động Hoa Nghiêm năm Canh Thìn (1641).
– Đến các đời Chúa Nguyễn Phật giáo được thịnh hành ở xứ Đàng Trong. Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên trị vì từ (1613-1635) đã từng đóng góp lập các chùa Long Hưng, Bửu Châu ở Quảng Nam. Quốc Chúa Minh Vương Nguyễn phúc Chu trị vì (1691-1725) cũng mộ đạo năm 1695 đã mời Hoà thượng Thích Đại Sán (Thạch Liêm) từ Trung Hoa sang Thuận Quảng hộ trì Phật giáo. Hoà Thượng Đại Sán từng đến Ngũ Hành Sơn. Đến năm 1702, Ngũ Hành Sơn được sự chú ý của giới thương gia nước ngoài. Một đại diện của công ty hoàng gia Trung Quốc đến tiếp xúc với vị Đại Sư Huệ Đạo Minh và tăng đồ (Đông dương Ấn Độ,Tích Lan 1902 trang 103) và các thương thuyền Âu Châu phát hiện thêm là Ngũ Hành Sơn có nhiều khỉ nên gọi “Montagnes des singes / núi của loài khỉ” Những ngôi Chùa trong bãi cát phiá nam Thủy Sơn chỉ còn lại những phế tích … Thời gian chiến tranh với nhà Tây Sơn chùa chiền, lăng miếu, bị tàn phá.